Ngày xưa có anh chàng chuyên sống về
nghề ăn trộm. Trong nhà còn có mẹ già phải nuôi. Tuy có lúc được nhiều, có lúc
được ít, nhưng trong nhà không bao giờ có của để dành, hai mẹ con thường phải
chịu bữa no, bữa đói.
Một hôm, nhân ngày giỗ cha,
mẹ chàng ôn lại cho chàng nghe cuộc đời của ông và cha chàng. Xưa kia ông nội
của chàng cũng làm nghề ăn trộm, có đêm kiếm được những món rất đáng giá, nhưng
khi nhắm mắt xuôi tay cũng không để lại cho cha chàng được chút gì.
Rồi đến đời cha chàng. Lớn lên, không
biết chọn nghề gì khác tốt hơn, cha chàng lại nối nghề ông cụ, đến đêm lại đi
rình mò hết làng trên xóm dưới mà cũng không bao giờ kiếm được nổi hai bữa cho
hai vợ chồng và đứa con. Rồi cha chàng chết đi cũng không có gì để lại. Nay đến
đời chàng, lao theo cái nghề này đã hai chục năm rồi mà tay trắng vẫn hoàn
trắng tay. Đã vậy, chàng cũng không tìm được nổi một người vợ, mặc dầu đã gần
bốn chục tuổi.
Ôn lại đời cha ông xưa và nhìn cuộc
đời mình, chàng không khỏi ngán ngẩm. Một đêm, chàng đến rình nhà ông thầy đồ ở
xóm bên, định ăn trộm cái thủ lợn mà một nhóm học trò mang đến biếu. Rình mãi
tới khuya, ông thầy vẫn chưa đi ngủ, ông đọc hết trang sách này tới trang sách
khác. Chợt ông thầy đọc tới câu: “Tích thiện chi gia tất hữu dư hương;
tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương”. Chàng bụng bảo dạ: “Phải chăng
ông cha ta làm nghề thất đức nên để khổ nhục lại cho ta?”. Rồi chàng tự trả
lời: “Phải, quả thật đúng như vậy”. Đoạn chàng chạy một mạch về nhà, quyết
từ bỏ nghề ăn trộm.
Sáng hôm sau, chàng vác búa vào rừng
hái củi và mang ra chợ bán. Công việc rất vất vả, hái được một gánh củi chàng
phải đổi một bát mồ hôi để có được một món tiền mua gạo, nhưng chàng thấy an
tâm hơn mọi ngày. Tuy vậy, đi đến đâu, chàng cũng nghe tiếng người xì xào: “Cẩn
thận đấy! Cái thằng ba đời ăn trộm đã đến đó!”. Cái tiếng “ba đời ăn trộm” làm
cho chàng buồn bã. Chàng nghĩ: “Từ nay ta phải làm những việc gì phúc đức
thì họa may mới xóa được mấy tiếng đó”.
Một ngày mùa hạ, trời mưa to, nước lũ
tràn về. Chàng đem củi đi chợ bán, vì nước lũ tràn về nhanh quá, không thể lội
qua sông như mọi hôm được. Hàng trăm người ùn lại vì chưa có đò, mặt trời đã
khuất sau rặng núi, mà mọi người vẫn loay hoay ở bờ sông. Chàng bèn nghĩ tới
việc bắc một cái cầu. Đêm ấy, ngủ lại bến sông cùng với nhiều người khác, chàng
đem chuyện bắc cầu ra hỏi bà con, nhiều người nói: “Đó là điều phúc đức
được muôn ngàn người nhớ ơn. Trước đây cũng đã có người làm nhưng rồi lại bỏ
dở”.
Sáng hôm sau, nước rút, chàng lội
sông về nhà. Tới nhà, chàng đem ý định bắc cầu ra hỏi ý kiến mẹ. Mẹ chàng rất
vui và giục chàng dốc sức bắc cầu. Từ đó, cứ sáng chàng lên rừng chặt cây; trưa
cố hái thêm một gánh củi để về cho mẹ đi chợ; chiều ra sức chuyển gỗ làm cầu.
Chàng làm việc quên ngày tháng. Buổi
chặt cây, buổi chuyển gỗ, buổi bắc cầu, không bao lâu đã bắc được hơn chục sải
cầu. Công việc còn nhiều nặng nhọc vì con sông rộng gần hai trăm sải. Vì ăn đói
mà làm nhiều nên chàng bị kiệt sức. Một hôm, chàng đói quá nên nằm lăn ra mê
man ở đoạn cầu đang làm dở. Những người đi qua xúm lại cứu chữa, nhưng chàng
vẫn chưa hồi tỉnh.
Lúc đó có một viên quan võ đi đến,
thấy một đám đông đang xúm quanh một người nằm sóng soài, viên quan xuống ngựa
đến gần hỏi chuyện. Mọi người cho biết đây là anh chàng đang bắc cầu làm phúc
thì mệt quá mà ngất đi. Viên quan liền mở túi lấy thuốc cho chàng uống.
Được một lúc, chàng tỉnh lại, mọi
người tản dần ra về, viên quan ngồi lại bên chàng ân cần hỏi chuyện. Chàng thật
thà kể hết cho ông nghe cuộc đời của mình và nói rõ ý định cùng công việc đang
làm. Viên quan nghe nói ra chiều cảm động, ông ngồi ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói: “Xưa
kia cha ông chàng làm nghề thất đức để cho chàng ngày nay phải đói nghèo. Nay,
chàng muốn làm điều phúc đức để chuộc lỗi lầm xưa kia, quả là hay vô cùng. Về
phần tôi, tôi xin nói thật: cha tôi, ông tôi, ông cụ, ông kỵ tôi, đời đời làm
quan ức hiếp dân lành, bóp hầu bóp cổ để nã tiền, nã của. Đấy cũng là điều thất
đức, vì vậy đến tôi ngày nay trời quả báo: lấy vợ đã hơn hai mươi năm rồi mà
không có một đứa con để vui cửa vui nhà, cho nên, tuổi đã ngoài bốn mươi, chúng
tôi vẫn phải sống hiu quạnh. Nay tôi cũng muốn làm điều phúc đức để chuộc lỗi
lầm xưa, chẳng hay chàng có cho tôi góp sức cùng nhau bắc cầu được không?”.
Chàng bắc cầu vui mừng nói: “Nếu
quan lớn có chí hướng như vậy thì cái cầu này sẽ chóng xong, dân chúng sẽ mau
được qua lại, còn gì tốt hơn!”. Hai người bèn cho nhau biết tên tuổi, quê quán,
rồi kết nghĩa huynh đệ. Viên quan võ hơn chàng bắc cầu bốn tuổi nên là anh.
Chàng bắc cầu nói: “Em còn có mẹ già ở nhà, vì nhà nghèo, phải bán củi lấy
tiền mua gạo cho nên ngày nào em cũng phải đem củi về nhà để sáng hôm sau mẹ
đem củi ra chợ bán lấy tiền”. Viên quan võ thân mật bảo chàng: “Anh có
nhiều tiền của, anh sẽ bỏ ra nuôi mẹ để em khỏi phải bận tâm, như vậy chúng ta
sẽ chuyên chú vào việc bắc cầu, em nghĩ thế nào?”. Chàng bắc cầu nói: “Nếu
vậy thì còn gì hay hơn!”.
Từ đấy, hàng ngày hai anh em cùng
nhau lên núi đốn cây, chuyển gỗ. Chẳng bao lâu, hai người đã dựng xong chiếc
cầu gỗ hơn hai trăm sải. Dân chúng ai cũng vui mừng, họ đặt tên là Cầu Phúc
Đức. Các cụ hai làng hoan hỉ cùng nhau bàn định góp tiền làm một bữa tiệc ăn
mừng chiếc cầu hoàn thành.
Ngày ăn mừng chiếc cầu, các vị bô lão
và tất cả dân chúng quanh vùng nô nức đến dự, ai cũng cầu xin Thượng Đế ban
phúc cho hai người bắc cầu, họ ăn uống linh đình suốt cả buổi sáng. Bỗng một
cơn gió bất chợt kéo đến, gió thổi mạnh, làm cúi rạp ngọn cỏ nghiêng ngả cành
cây. Gió thổi mỗi lúc một mạnh, rồi bất thình lình cuốn anh chàng bắc cầu đi
mất. Viên quan võ thất thanh kêu gọi, tất cả mọi người đều ngậm ngùi.
Thấy người em kết nghĩa của mình hết
lòng hết sức hàng ba năm trời ra làm cầu mà lại không được hưởng phúc, viên
quan xót xa lắm. Sau khi mọi người đã ra về, ông đón vợ sang ở chung với bà cụ
để sớm hôm trông nom, phụng dưỡng bà thay người em kết nghĩa.
Chàng bắc cầu bị gió lốc cuốn tới một
cái hang trên một ngọn núi cao. Chàng lảo đảo đứng chưa kịp vững, cơn gió bỗng
vụt hóa thành người tươi cười nói với chàng: “Nhà ngươi chớ sợ, ta là Thần
Gió được Ngọc Hoàng sai đi đón nhà ngươi về đây để thưởng cho ngươi cái công
thành tâm làm chuyện phúc đức. Bạc vàng đấy, nhà ngươi muốn lấy bao nhiêu thì
lấy”.
Chàng bắc cầu nhìn vào hang thấy đống
vàng sáng chói. Chàng cởi áo gói lấy một số vàng, rồi buộc lại cẩn thận, chàng
vác gói vàng lên vai, tiến ra cửa hang, Thần Gió lại hóa thành cơn gió lốc cuốn
chàng đi, trả về bản và đặt chàng nhẹ nhàng xuống giữa sân nhà. Chàng bắc cầu
sung sướng để gói vàng xuống rồi lên tiếng gọi cửa. Nghe tiếng gọi, mẹ chàng và
hai vợ chồng viên quan võ tưởng là hồn chàng bắc cầu hiện về, liền dắt nhau lại
ngồi quanh chiếc bàn thờ thắp hương khấn vái lầm rầm. Nhìn qua kẽ liếp thấy ba
người vừa cúi lạy, vừa khấn, chàng bắc cầu bật cười lại một lần nữa chàng lên
tiếng gọi: “Mẹ ơi! Con đây mà! Anh ơi! Em đây mà! Mẹ ơi! Con hãy còn sống
trở về nhà đây, mau mau mở cửa đi!”. Nghe rõ tiếng gọi của con, bà mẹ mừng
quýnh. Vợ chồng viên quan võ vội chạy ra mở cửa, đón người em kết nghĩa.
Chàng bắc cầu ngồi xuống kể lại ngọn
ngành câu chuyện được Thần Gió đưa đi lấy vàng cho cả nhà nghe, mọi người reo
mừng sung sướng. Từ đó, mẹ con chàng bắc cầu bắt đầu trở nên giàu có, chàng mời
hai vợ chồng người anh kết nghĩa ở lại và cùng nhau làm ăn. Ít lâu sau, vợ viên
quan võ có thai, đến ngày sinh, chị sinh được một bé trai. Hai vợ chồng mừng vô
kể. Ít lâu sau, chàng bắc cầu cũng lấy vợ, có con, và sống hạnh phúc đến già.
Câu chuyện này nhắc chúng ta
phải từ bỏ quá khứ tội lỗi, cố gắng tu thân tích đức để được hưởng phúc ấm!
.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét