Chàng nghèo thật hết chỗ nói, cả sự
nghiệp của chàng chỉ có một bà mẹ già mà thôi.
Lâu lắm người ta mới biếu cho chàng
một cái búa để đề ơn cứu sống một em bé chết đuối.
Ðược búa, chàng đưa mẹ vào núi, tìm
một hang đá, chàng lót rơm êm và có gió mát để mẹ ăn ở; như thế chàng an tâm
lắm. Ngày ngày đi kiếm củi rồi về chợ đổi gạo, mặc dù ít tiền, chàng vẫn mua
được thịt để mẹ xơi. Tu Lại tên chàng chẳng những lan rộng với chữ hiếu, mà
người ta còn gọi chàng là tráng sĩ, vì chàng thường giúp đỡ nhân dân trong vùng
ấy, bất luận gặp một tai nạn gì chàng thường giúp đỡ họ tận
lực.
Vì chàng ở núi, nên người ta đặt
chàng những món tiền lớn để bắt các thú rừng hiền lành như: nai, khỉ, chồn, thỏ
v.v… Tu Lại từ chối vì chàng là một Phật-tử chơn-chánh, không bao giờ giết một
sinh vật nào dù nhỏ. Chẳng những chàng không bắt chúng mà còn yêu mến chúng
nữa, nên lâu ngày chúng quen và thường gần đến chỗ hai mẹ con chàng ở. Cái hang
ấy bao giờ thành vui, hoa lạ nở hai bên, những tổ chim làm gần gũi đó.
Có những đêm trăng sáng mẹ chàng mẹ
Phật, chàng ngồi bên kết mấy thứ cỏ khô thành áo để mặc mùa đông.
Nhưng đã sáu ngày nay, trời mưa luôn
không ngớt, gạo trong hang đã hầu cạn, chàng lo ngại, nếu mưa cứ kéo dài. Hôm
nay trời bừng sáng, Tu Lại sung sướng quá, chàng chào mẹ rồi vác búa ra đi, đến
chỗ thường đốn củi, thì xa xa có bóng ba thiếu nữ. Thấy có người, ba bóng kia
bỏ đi nơi khác. Chàng để bầu nước xuống và sửa soạn vào việc thì ồ thật, một
chiếc kim thoa óng ánh “nằm ngã nghiêng bên tảng đá, không còn nghi vì nữa,
chàng vội nhặt lấy, rồi chạy theo ba thiếu nữ kia trả lại cho họ, người ta nhìn
chàng với cặp mắt cảm trọng. Nhưng người tráng sĩ không trả ân bằng tiền gạo
được, vì người ta biết tiếng chàng nhiều lắm. Nhưng, từ độ ấy về sau, nơi hang
mẹ chàng thỉnh thoảng có người đem biếu gạo trắng thịt ngon, trong lúc chàng đi
làm củi vắng, cứ thế, rồi một ngày kia…
Một sáng mai khi chàng còn mơ màng
chưa tỉnh hẳn thì có một nàng tiên đến ngồi bên chàng, nàng tiên ấy trên trời
sa xuống lâu hay mau không biết, hồi nào không hay, nhưng nàng là tiên thật, vì
nàng đẹp quá. Một tấm “voan” màu nước biển phủ nhẹ toàn thân, trên mái tóc xanh
là một tràng hoa tươi. Chàng phải gượng với bộ áo sơ sài của mình. Tu Lại lại
ngồi phắt dậy: “Nàng là ai? Sao lại đến đây?”
Thiếp là sương phụ đánh rơi chiếc kim
thoa hôm nọ, được tráng sĩ cho lại, về nhà thiếp suy nghĩ: “Ở đời giàu sang
không phải chơn hạnh phúc, được gần bậc hiền nhân mới chắc chắn sống một lối
sống của con người biết sống! Tiếng nay giàu có, của cải dư dật, cha mẹ không,
chồng chết, chỉ có hai con thơ, nay thiếp đến đây nguyện theo chàng, mong chàng
đừng phụ, thiếp xin thay chàng hầu hạ mẹ già, và giúp chàng học hành để thành
danh đức, hầu sau làm lợi ích cho đời, nếu chàng cố chấp không nghe, thiếp rất
tiếc tài ba đức độ của chàng vùi sâu trong hang thẳm”.
Tiếng nàng trong và êm quá, trong như
tiếng suối chảy, êm như tiếng chim kêu, nàng nói với một vẻ thiết tha thành
thật. Câu chuyện mới cắc cớ làm sao, mỗi lời nói của nàng như rót vào tai tráng
sĩ.
Tu Lại mơ màng như người trong mộng.
Chàng suy nghĩ: “Không biết ta chiêm bao hay thật, mà nàng là người thật hay
ma”. Bỗng chàng nghiêm nét mặt và bảo: “Tôi xem nàng là người đoan chính lại
giàu sang là do phước báu của đời trước đã gây tốt nhiều, còn tôi chỉ là một kẻ
nghèo khổ, làm sao xứng đáng với nàng và, theo tôi, một người sương phụ cần
phải thờ chồng, nuôi con, dạy vẽ cho con nên người, xứng với ý nghiã con người
mới phải. Thiết thật hơn, tôi nay còn mẹ già, nếu tôi lập gia đình, tình yêu mẹ
sẽ san sớt, nàng còn có con thơ, nếu nàng lập gia đình tình yêu con sẽ không
còn nguyên vẹn, mẹ tôi cần có tôi mới vui, con nàng cần có nàng mới sống. Vì
vậy tôi khuyên nàng trở về nuôi con và dứt bỏ câu chuyện này. Còn nàng sợ đức
độ tài ba của tôi sẽ mai một, nếu tôi quả có đức độ như nàng tặng, thì trong
rừng sâu các loài cầm thú cũng cần có đức độ để che chở cho chúng, như thế có
đức độ thì ở đâu mà lại không dùng được?
Nàng tiên ấy bay đi, trời đương
sáng bổng tối hẳn, người tráng sĩ cũng thấy nao nao trong lòng, nhưng rồi chàng
lại vui lên nhiều, vì chàng đã chiến thắng. Song không hiểu vì sao, những
chuyện kỳ lạ lại hay đến với người nghèo lạ ấy.
Một hôm, có một người lạ mặt
hốt hoảng chạy đến lôi ra một thoi vàng thắm, rồi thưa với Tu Lại:
-
“Thưa tráng sĩ,
tôi xin biếu chút quà mọn nầy, nhờ tráng sĩ giúp cho tôi một lời nói. Ngày mai
đây, nếu có ai hỏi: Có một đoàn người đi qua đây không? Thì tráng sĩ nói
cho một tiếng “có”, ở đây chỉ có tráng sĩ và tôi, ngoài ra không còn ai
hay chuyện này cả; vả lại tráng sĩ chỉ nói cho một tiếng cũng không sao.”.
Nói xong , người bỏ vàng lại đó, rồi chạy mất,
Tu Lại chưa kịp suy nghĩ gì cả, nhưng chàng vội lượm vàng rồi chạy theo thật
nhanh mới kịp. Tu Lại kéo tay người kia:
-“Không, không, vàng ông hãy cầm lấy, tôi
không thể theo lời ông được, tôi là một người Phật tử không bao giờ làm việc ám
muội, một lời nói của người quân tử trọng hơn nghìn vàng, nhưng một lời nói còn
trọng hơn cả thân mạng, nếu ông đem nghìn vàng hay dùng uy thế để hại mạng tôi,
bảo tôi nói dối, thà chết chứ không bao giờ phạm giới cấm của Phật”, nói xong
Tu Lại bỏ vàng rồi chạy thẳng.
Tiếng tốt của người tráng sĩ bay xa
như ngọn gió mát vô tình thổi từ rừng sâu vào đến thâm cung. A Dục Vương
là người hiếu kỳ, muốn thử chàng, nên những chuyện bỏ rơi và người cơn gái đến
tận hang chàng chính là cung nhơn của vua A Dục Vương. Sau mấy lần thử thách,
nhà vua biết Tu Lại là bậc hiền nhân nên đem lòng đố kỵ sai người đến hại
chàng. “Tôi vâng lệnh nhà vua đến giết tráng sĩ” người đao phủ cầm gươm sáng
bảo thế.
- Ồ, thế thì tốt quá, tôi rất cám ơn
Ngài đã vì tôi mà hủy giùm cái thân ô uế đầy tội lỗi này. Song tôi còn chút mẹ
già nhờ ngài chiếu cố cho… Tên đao phủ ngạc nhiên trước thái độ thản nhiên củaTu
Lại.
- Ông là vô tội, nhà vua vì lòng đố
kỵ sai tôi đến hại ông, vậy ông không giận nhà vua sao?
- Không, tôi không giận mà còn thương
hại nhà vua đã gây nhiều nghiệp ác, trước khi chết tôi xin cầu Ðức Phật cho nhà
vua phát Bồ Ðề tâm hồi hướng thiện niệm.
Tên đao phủ mím môi, đỏ mặt đưa gươm
lên cao dán xuống đầu chàng… nhưng lưỡi gươm kia xuống từ từ rồi chui thẳng vào
vỏ kiếm…
Sáng hôm sau vua A Dục lên
tận hang chàng ở, đến nơi, chàng đi làm củi sớm, vua chờ trọn ngày mới gặp. Vua
A Dục từ tốn bảo: “Trẩm làm vua, trong nước có hiền tài mà Trẩm biết chậm thật
là đáng tiếc! Ngày nay nước nhà loạn lạc Trẫm mong tráng sĩ về triều cùng Trẫm
chăm lo việc nước, được vậy thật là hạnh cho nhân dân”. Chàng từ chối năm bảy
dạo, vua nài nỉ đôi ba phen, cuối cùng chàng hẹn trong bảy ngày sẽ trả lời.
Trong bảy ngày, ba lần vua đến thăm
ba lần vua cho người lên thăm hỏi. Tu Lại hỏi ý kiến mẹ, mẹ chàng bảo:
-“Hiện nay mẹ trong nước, nhà vua thì lãng
mạn, hoang hung, hà khắc dân tình, nhân dân oán thán đến nổi họ đặt tên nhà vua
là Chiên Ðà La A Dục (ông vua hung tợn như người hàng thịt). Triều đình nịnh
thần ô lại; ngoài thì vua hung tàn, con ngỗ nghịch, vợ bất chánh, chồng bất
lương… đạo đức hầu như mất hẳn tất cả tâm niệm xấu xa độc ác kết hợp lại do đó
giặc cướp nổi lung tung. Con nay chấp kinh cũng phải tùng quyền, vậy nhân cơ
hội này con có dịp đem giáo lý của Ðức Phật để cảm hóa quần sanh hầu mong cứu
vãn nhân tâm, đưa lại sự an ninh cho nhân loại”.
Vâng lời mẹ Tu Lại về triều, vua A
Dục lấy hai chữ Quốc Bửu (vật quí của nước) tặng chàng làm tên.
Trước hết Quốc Bửu đem ba pháp quy y,
năm điều cấm giới cảm hóa vua. Vua A Dục từ khi biết quy đầu về Phật không bao
lâu trở thành một vị minh quân. Ông đổi hẳn chính sách, lấy đức độ trị
dân, không dùng oai thế tàn bạo như trước nữa. Vì thế mà nhân dân trong nước
trở lại cảm phục vua, từ đó đặt tên vua là Thích Ca A Dục (ông vua hay làm đìều
nhân từ).
Trong nước nhà vua trọng những người
hiền hiếu, trừng trị kẻ hoang dâm, cấm hẳn sự xa hoa cờ bạc, săn bắn, triệt để
không rựợu chè đàng điếm, người già cả bệnh hoạn được săn sóc chu đáo, nhà nhà
đều thờ Phật, trọng Tăng tu Pháp “Thập thiện”*. Nếu ai phạm một trong năm đìều
răn phải bị trục xuất ra khỏi nước. Nhờ vậy, không bao lâu trong nước trở lại
thái bình an lạc.
.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét