Cội tùng cheo leo bên vực thẳm trong
vườn quốc gia Zion, bang Utah, Hoa Kỳ - Ảnh: H.L
Sinh ra lớn lên tại khu
ghetto nghèo đầy tội phạm thường thấy tại các thành phố lớn,
John không có cha, mẹ nghiện ngập suốt ngày. Bao nhiêu tiền chính phủ trợ
cấp hàng tháng cho gia đình nghèo, mẹ anh dùng mua rượu,
thuốc.
John nhiễm theo tính xấu môi trường chung quanh, tuy chưa dính vào ma túy, nhưng thỉnh thoảng trốn học, cạy cửa xe, đột nhập nhà ăn trộm để có tiền mua những món đồ mình thích. John cũng từng bị cảnh sát bắt một lần nhưng dưới tuổi trưởng thành nên chưa phải ngồi tù.
John nhiễm theo tính xấu môi trường chung quanh, tuy chưa dính vào ma túy, nhưng thỉnh thoảng trốn học, cạy cửa xe, đột nhập nhà ăn trộm để có tiền mua những món đồ mình thích. John cũng từng bị cảnh sát bắt một lần nhưng dưới tuổi trưởng thành nên chưa phải ngồi tù.
Do mẹ anh không còn tiền
mua thực phẩm, John ăn sáng ăn trưa tại trường học được Bộ Xã
hội tài trợ cho học sinh nghèo. Chiều tối John cuốc bộ đến nhà
ăn từ thiện dưới phố dành cho người khốn khó. Đến đây ăn đã nhiều năm
nhưng John không quen ai trong nhóm thiện nguyện, bởi mỗi ngày có những nhóm
khác nhau tham gia phục vụ.
Người duy nhất John nhớ
đến là ông già tuổi ngoài 70 thường làm vào chiều thứ Bảy. Mỗi lần gặp, ông
cười tươi, chào mọi người đến ăn rất chân tình. Ông khéo léo múc
các món thức ăn vào khay, tươm tất gọn gàng. Khi đưa khay thức
ăn, ông bao giờ cũng niềm nở, chúc người ăn ngon miệng như thể
đang phục vụ cho vị khách cao quý tại nhà hàng sang
trọng nào. Mỗi lần gặp ông, John cảm thấy an lạc, nhẹ
nhàng. Thỉnh thoảng khi vắng người, thấy John ngồi ăn lẻ loi một
mình, ông pha ly nước cam đem đến.
John thường không giấu ông điều gì,
ngay cả chuyện đánh nhau ở trường hay cạy xe ăn cắp vặt bị
cảnh sát bắt. Ông ngồi nghe chăm chú gật gù, cám ơn người thiếu
niên to lớn tuổi teen đã chia sẻ. Sau mỗi lần trò chuyện, ông luôn
cười rất tươi khuyên John:
- Làm cậu bé tốt tính đi! Đừng làm
chuyện dính vào phiền phức nữa, khi đến tuổi trưởng
thành sẽ không tốt cho cháu.
John bản tính ương
ngạnh, máu giang hồ ảnh hưởng từ khu ghetto, cười lanh lảnh, chỉ
vào bắp tay cuồn cuộn, tự hào:
- Cháu mạnh, chắc như đá tảng.
Không ai làm gì được cháu đâu!
Không giống như những người
khác đến dùng cơm một thời gian rồi ra đi, John đến đây hàng ngày,
năm này qua năm kia nên tất cả các nhóm thiện nguyện đều biết đến cậu tuổi teen
này. John trở nên thân thiết gắn bó với ông già, gọi
ông thân mật hí hỏm bằng cái tên tự đặt: Ông già Cool (cool: vui
vẻ, điềm tĩnh).
Bẵng đi một thời gian dài
John đột nhiên biến mất không đến dùng cơm. Mọi người thắc
mắc muốn tìm hiểu nhưng không biết địa chỉ. Mấy tháng sau, viên cảnh
sát đến tìm ông Cool tại nhà ăn, trao bức thư:
-“Ông Cool ơi, cháu đã 20 tuổi rồi, đang ngồi
tù vì tội trộm cướp. Mẹ cháu mất hơn nửa năm nay. Tháng tới cháu sẽ được thả
nhưng không biết phải đi đâu, làm gì để sống. Với hồ sơ tội phạm nếu
không người bảo lãnh sẽ không ai muớn cháu, dù có tiền thuê nhà
không ai sẽ cho cháu thuê. Cháu không muốn sống trở lại với
giới giang hồ để tiếp tục con đường cũ. Cháu muốn làm
người tốt, ông ơi!”.
Buổi chiều bước chân ra khỏi nhà tù, nét mặt
John mệt mỏi, hoang mang cực độ sau một đêm trằn
trọc. Cảm giác được tự do không đủ làm anh vui khi đối
diện tương lai vô vọng phũ phàng. John thất thểu bước đến
trạm đăng ký xe miễn phí dành cho tù nhân mãn hạn, dù
không biết phải đi đâu. Hình như có ai đang vẫy tay nơi xa xa. Nụ
cười tươi mát ấy, khuôn vóc điềm tĩnh ấy, không thể nào ai khác, John
mừng rỡ kêu to, anh chạy ào đến ôm choàng, siết chặt:
- Ông Cool!
Ông xoa nhẹ, vỗ về tấm lưng
chắc thịt của người thanh niên mới lớn, ông cho biết các nhóm thiện
nguyện tại nhà ăn đã quyên góp mướn căn phòng gần đó giúp anh có nơi
cư trú trong 6 tháng. Ông sẽ chở John về nhà ở tạm đêm nay rồi ngày mai đi nhận
phòng. John bàng hoàng như không tin vào chính tai mình. Mới vài
phút đây thôi anh thấy cô đơn lạc lõng tận cùng. Thế
giới như không có anh, loài người như không biết đến
sự hiện hữu của anh. Cảm giác được yêu thương,
được chấp nhận làm John xúc động mạnh. Mắt anh hoen ướt đầu
tiên trong đời.
Ông Cool sống một
mình trong căn nhà nhỏ chỉ có một phòng ngủ nhưng có phòng khách lót sàn
gỗ khá rộng thoáng. Nơi đây ngoài mấy kệ sách, vài tấm gối ngồi trên sàn của
Nhật (tọa cụ), có chiếc bàn thô sơ chưng bức tượng đồng ngồi mỉm cười thật
đẹp mà John không biết là ai và có ý nghĩa gì.
Ông Cool làm sẵn món mì Ý đãi John
trong buổi cơm chiều. John kể cho ông nghe nhiều khía cạnh khốc liệt đời
sống trong tù. Ông chăm chú lắng nghe, gật gù. Dùng bữa xong, ông
khuyên John đi tắm để ông lót nệm ngoài phòng khách cho John ngủ tối nay. Khi
tắm xong, John bước ra, không gian thanh tịnh lạ lùng. Anh
chợt giật mình khi thấy ông Cool phong thái rất an nhiên, ngồi thẳng
lưng lặng im giữa căn phòng, miệng mỉm cười cùng bức tượng
trên bàn.
Đột nhiên ông nói khẽ:
- Cháu ngồi xuống đây bên cạnh ta,
trên tấm gối này, chúng ta cùng trò chuyện.
John nghe lời, ngồi xuống như
dáng ông ngồi, nhìn vào bức tượng đang mỉm cười. Không gian lắng
đọng, anh nghe được cả hơi thở chính mình.
Ông Cool hỏi John:
- Cháu kể về đời
sống trong tù, thế cháu có dự tính gì sau khi ra tù không?
- Cháu không biết bắt đầu ra sao
ông ạ, mọi chuyện đối với cháu như ngõ cụt. Cháu may mắn được ban
thiện nguyện giúp 6 tháng tiền trọ, nhưng sau 6 tháng cháu cũng không biết phải
làm gì.
Vẫn nhìn bức tượng mỉm cười,
dáng an nhiên bất động, ông lên tiếng:
- Thật ra cháu đã biết bắt đầu rồi
đấy chứ. Cách đây 1 tháng, cháu biết bắt đầu bằng nhận thức rằng mình
phải làm người tốt. Chính điều ấy đã gieo mầm cho những điều tốt
đẹp hôm nay. Nếu cháu tiếp tục con đường làm người tốt thì
điều tốt đẹp sẽ tiếp tục đến với cháu.
- Nhưng cháu tiếp tục như
thế nào hở ông? Cháu sẽ cố gắng xin việc làm, nhưng cháu không
có kinh nghiệm gì. Ai sẽ mướn một người từng ở tù như cháu?
Nhẹ nhàng, ông Cool khuyên:
- Cháu hãy cố
gắng kiếm việc làm hàng ngày. Ai cũng muốn thuê người tốt. Vậy
cháu nên làm gì để mọi người có cơ hội biết cháu là người tốt?
Suy nghĩ một lúc lâu,
John lên tiếng, giọng vẫn còn rổn rảng, khô cứng của giới giang hồ:
- Mỗi ngày ăn ở nhà ăn thiện nguyện,
cháu sẽ giúp dọn dẹp, rửa chén hoặc bất cứ việc gì cần làm.
Ông Cool đôi mắt sáng biểu
lộ niềm vui:
- Thật tuyệt vời! Cháu thấy không?
Cháu biết mình phải bắt đầu như thế nào mà.
Chỉ vào bức tượng trên bàn, ông nói
tiếp:
- Làm người tốt bao
gồm làm người chung quanh cảm thấy an vui. Mỗi ngày cháu
ráng bỏ ra 10 phút, ngồi một mình, thở nhẹ nhàng, tập cười như
bức tượng kia cười. Gặp ai cháu cũng cười nhẹ nhàng như bức tượng nhé. Làm được
như thế, nhiều điều mầu nhiệm sẽ đến. Cháu sẽ thấy đời
sống đáng yêu, âu lo cũng bớt đi rất nhiều. Mấy mươi năm nay mỗi ngày ông
đều ngồi tập cười như thế.
John trầm trồ:
- Ồ, thì ra vì thế mà ông lúc nào
cũng cười rất tươi mát với mọi người. Ai cũng thân thiện quý
mến ông. Làm thế nào cháu cũng có một tượng như thế? Tượng là Buddha
(Phật) phải không ông? Phật là vị thánh như thế nào?
- Ông sẽ cho cháu một tượng như thế.
Phật là người có thể tự tại mỉm cười trước mọi hoàn cảnh.
Cháu có thể nghĩ đơn giản rằng: Phật là người lúc nào cũng cool.
Sau này cháu muốn tìm hiểu thêm, ông sẽ nói thêm.
Ngày đầu tiên John trở
lại dùng cơm tại nhà ăn, mọi người vui vẻ đón chào. Khi
anh ngỏ lời muốn giúp những việc lặt vặt tại đây, các nhân
viên từ thiện đều đồng ý nhưng có chút ưu
tư trong lòng: không biết tính khí giang hồ trước đây của
anh có làm công việc khó khăn nặng nề thêm? Thế nhưng chỉ sau vài
ngày, mọi người thì thầm bàn tán “thằng John rổn rảng ngang
ngược ngày trước sao giờ dễ thương quá đỗi!”.
John không hề câu nệ bất
cứ việc gì, từ lau chùi dọn dẹp cho đến nấu nướng. Anh tâm
niệm lời ông Cool dạy, lúc nào cũng niềm nở cười tươi.
Gặp những người già, anh tận tình đem
đồ ăn thức uống đến tận bàn và thỉnh thoảng hỏi han cần
thêm chi. Chỉ một tháng, hơn trăm nhân viên tình nguyện của các tổ
chức phục vụ tại đây đều quý mến John. Sau hai tháng, biết
John hằng ngày nỗ lực xin việc làm, ông chủ chuỗi nhà
hàng sang trọng thỉnh thoảng đến đây làm thiện nguyện
đã ngỏ lời mướn anh.
Ông ta nói với John:
- Anh làm việc không lương mà
vẫn vui tươi tận tình như thế thì tôi biết khi có lương anh sẽ
làm tốt hơn thế nữa.
John như không tin vào tai
mình, vui mừng cực độ khi lần đầu tiên trong đời được
mướn đi làm.
Anh đến vội nhà ông Cool báo tin.
Gặp ông, anh dang hai tay lên trời sung sướng hét to:
- Ông ơi! Thật nhiệm mầu, cháu có
được việc làm rồi! Cháu thật không ngờ những điều ông
dạy đơn giản như thế lại thành sự thật. Lãnh lương đầu
tiên, cháu sẽ đãi tiệc ông.
Ông Cool hân hoan,
giọng điềm đạm từ tốn:
- Ông
thật vui cho cháu, nhưng phải nhớ nhé, mỗi ngày cháu tiếp tục cố
gắng bỏ ra ít phút tập thở và cười. Nếu mình bỏ lơ đi một ngày thì sẽ
từ từ thành hai ngày và rồi đánh mất chính mình tự lúc nào. Điều mầu
nhiệm cũng sẽ biến mất. Thực hành trong mỗi ngày nhắc nhở ta
sống trong ý thức, nhắc nhở ta sống trong chánh niệm.
Khung cảnh giờ ăn tại nhà thiện nguyện (ảnh
minh họa) - Ảnh: H.L
John hỏi:
- Chiều Chủ nhật hàng tuần, ông cho cháu
đến nhà ngồi chung với ông nhé, để dạy cháu thêm?
Ông Cool nhìn John trìu mến, vỗ
nhẹ vào vai anh:
- Được chứ, ông rất vui khi cháu
đến!
Cuộc sống John kể từ đó thuận
buồm xuôi gió, anh được tài trợ đi học thêm, thăng tiến chức vụ theo năm tháng,
từ người hầu bàn, thành ca trưởng, trợ lý. Mười năm sau anh
được thuyên chuyển qua tiểu bang khác làm quản lý nhà hàng.
Tuy xa ông Cool nhưng anh vẫn liên lạc mỗi tuần và hàng ngày thực
hành lời ông dạy.
Một hôm, khi gọi thăm như thường lệ,
anh rất ngạc nhiên khi nghe giọng nói đầu dây khác lạ. Qua vài
câu xã giao thăm hỏi, giọng người lạ báo tin:
- Tôi là cháu Thiền
sư Sota từ tiểu bang khác về, cách đây vài hôm bệnh viện báo tin ông đã
qua đời anh ạ. Ông ra đi khuôn mặt vẫn cười rất an lạc. Ông có để lại di
chúc, trong đó có nhờ anh tí việc.
Một ngày mùa xuân, người đàn
ông tên John tuổi ngoài 30, theo lời dặn trong di chúc để lại của ông
lão dạy thiền nơi miền Tây bắc Hoa Kỳ, lái xe hơn 2 ngàn cây số xuôi Nam tìm
đến Vườn quốc gia Zion, bang Utah, Hoa Kỳ. Đoạn đường dài như bất tận
ấy, một mình lái xe, John thả hồn trong cảm xúc nhớ thương
ông lão vô biên...
Sau một đêm nghỉ ngơi tại nhà trọ
trong Vườn quốc gia, sáng sớm anh hỏi người quản
lý giúp nhận định địa điểm tên một đỉnh núi trong hơn mấy chục
đỉnh tại đây, John lần theo đường mòn đi bộ lên đỉnh núi
cao. Con đường trắc trở, khi đi, khi trèo qua những khối đá, phải mất
4 giờ John mới tới nơi. Anh loay hoay ngang dọc trên đỉnh một lúc lâu rồi
thốt lên mừng rỡ:
- Ô, đây rồi! Ôi, đẹp quá!
Một cây tùng xanh tươi mọc ngay trên
bờ đông của đỉnh mà một phần thân trườn ra bên ngoài vực sâu thăm
thẳm cả ngàn mét. Gió ở đây khá mạnh, rít từng cơn làm John cảm
tưởng có thể hất văng anh xuống vực bất cứ lúc nào.
John mở ba-lô lấy hộp đựng tro, anh
quỳ xuống, cẩn thận tỉ mỉ, rót từng giọt tro qua những khe đá nơi rễ
cây tùng mọc. Xong việc anh ngồi đối diện cây tùng, hồi
hộp mở lá thơ ông Cool để lại, không biết ông viết gì trong ấy mà phải đến
đây mới được đọc.
John giọng mỗi lúc mỗi nghẹn ngào:
“Thời trai trẻ biết bao lầm lỗi, ta lang thang
đến đây. Trong tuyệt vọng chán chường ta có ý định nhảy
xuống vách núi kết liễu cuộc đời. Nhưng mi - cây tùng bỗng
nhiên hiện diện vững vàng ngay trên vách. Ở đây chỉ có đá và
gió, thân mi thì có thể rơi xuống vực sâu bất cứ lúc nào, nhưng mi vẫn sống
khỏe trên vùng núi khắc nghiệt này, vẫn xanh, vẫn tươi mát chở che soi bóng cho
hòn đá thô cứng bên cạnh. Cám ơn mi cứu mạng, giúp ta bài học nhiệm mầu.
Xin gởi đám tro tàn góp phần cho mi”.
Nước mắt John tuôn chảy, xúc cảm
từng cơn chấn động châu thân. John thấy mình hết sức phước
đức được ông Cool bằng xương bằng thịt chỉ dẫn từng bước trong cuộc
sống. Còn ông Cool khởi đầu chỉ có cây tùng. Anh thấy mình có nhiệm
vụ làm cây tùng tiếp nối cho những hòn đá khác.
Nghẹn ngào, hùng tráng, anh ngâm to
bài thơ ông Cool làm cho cây tùng trên đỉnh núi cao, giữa không
gian lộng gió:
Núi sừng sững cao
Vực thăm thẳm sâu
Gió cuồng điên bạt!
Sấm gầm động vang!
Hề ta đứng! Mỉm cười cùng năm tháng
Soi bóng đời che chở đá cô liêu.
Huyền Lam
.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét