Sau khi chết, con khỉ nọ liền đi gặp Diêm vương để xin kiếp sau được làm người. Diêm vương nói như một mệnh lệnh: “Muốn làm người, ngươi phải nhổ hết lông trên thân thể của ngươi”.
Nói xong, Diêm vương kêu lũ
quỷ đè khỉ ra mà nhổ long. Mới bị nhổ một sợi lông, con khỉ la lên: “Đau
chết đi được!”. Nghe vậy, Diêm vương cười to và nói: “Một sợi lông mày
cũng không muốn nhổ, làm sao làm người được chứ?”.
Vâng, làm người thật khó,
không dễ chút nào. Sống đúng con người lại càng khó hơn. Con khỉ phải nhổ hết
lông mới có thể làm người, chúng ta cũng phải nhổ hết các sợi lông thói hư và
tật xấu thì mới nên người. Đúng vậy, Chúa Giêsu đã bắt chúng ta nhổ hết lông để
nên người: “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi thì không thể làm
môn đệ tôi được” (Lc 14:26). Có vậy thì mới nên hoàn thiện và nhân từ như Thiên
Chúa Cha được.
Bị tình trạng “ba không” như
vậy thì thật là khổ, ở đây là dạng “ba không thụ động”. Tuy nhiên, trong cuộc
sống có những khi chúng ta cần phải biết “ba không chủ động”. Dạng “ba không
chủ động” còn có dạng tích cực và tiêu cực. Tình trạng “ba không” này gợi nhớ
tới bộ Khỉ Tam Không: Một con khỉ bịt tai, một con khỉ bịt mắt, và một con khỉ
bịt miệng. Tức là không nghe, không nhìn, và không nghe.
Ba hình tượng đó cũng nhắc
nhở chúng ta về cách sống vô cảm: Sống an phận, mặc kệ những gì đang xảy ra
xung quanh, và người ta gọi đó là những người theo quan niệm “mackeno” – tức là
“mặc kệ nó”. Tuong tự câu người ta thường nói: “Sống chết mặc bay, tiền
thầy bỏ túi”. Ai sao mặc ai, miễn sao mình “khỏe re” là được!
Giữa cuộc đời đầy các điều
thị phi và nhiễu nhương này, nếu cứ “an phận” và vô cảm như vậy thì xã hội sẽ
đi đến đâu, còn gì là tình người? Và nếu cứ bịt tai, bịt mắt, bịt miệng như thế
cả cuộc đời, cuộc sống còn gì là thú vị? Là Kitô hữu thì không thể và không có
quyền sống vô cảm, nghĩa là phải biết yêu thương, biết chạnh lòng trắc ẩn, biết
thể hiện lòng thương xót như Chúa Giêsu đã sống.
Người ta cho rằng bức tượng
“Khỉ Tam Không” này có nguồn gốc Ấn độ từ vài ngàn năm trước. Nguyên là
bức tượng Thần Vajrakilaya, vị thần có 6 tay, mỗi đôi tay dùng để bịt hai mắt,
hai tai và hai miệng. Có ý khuyên răn người ta “không nhìn bậy, không nghe bậy,
và không nói bậy”.
Sau đó, vào khoảng thế kỷ
VIII, đời nhà Đường (Tang Dynasty), một thiền sư người Nhật đến Trung hoa
và đã mang theo tư tưởng này về Nhật. Tại Nikko (cách Tokyo chừng 140 cây
số về hướng Bắc), ở đền Toshogu hiện nay còn lưu giữ một bức điêu khắc cổ là ba
con khỉ với ba tên là Mizaru, Kikazaru và Iwazaru. Từ “zaru” gần giống âm
với “saru” – nghĩa là con khỉ, nên người ta khắc hình ba con khỉ bịt mắt, bịt
tai, bịt miệng với vẻ mặt ngộ nghĩnh để biểu thị cho triết lý sống này. Bức
tượng gỗ này của nghệ nhân Hidari Jingoro nổi tiếng từ thế kỷ XVII.
Con che mắt tên là Mizaru –
nghĩa là “tôi không nhìn thấy điều xấu”, con bịt tai là Kikazaru – “tôi không
nghe những điều xấu”, con bịt miệng là Iwazaru – nghĩa là “tôi không nói điều
xấu”.
Điều này cũng mang tư tưởng
của Khổng Tử. Sách Luận Ngữ cho biết rằng khi Nhan Uyên hỏi về đức nhân và
những điều gì cần phải làm, Khổng Tử đáp: “Phi lễ vật thị, phi lễ vật
thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động” – nghĩa là “không nhìn điều sai,
không nghe điều bậy, không nói điều trái, không làm điều quấy”.
Tuy nhiên, người Nhật thâm ý
hơn nhiều: “Bịt mắt để dùng TÂM mà nhìn, bịt tai để dùng TÂM mà
nghe, bịt miệng để dùng TÂM mà nói. Khi TÂM ở trạng thái “tịnh”, không bị quấy
rầy bởi những điều xấu thì từ TÂM mới phát sinh những điều “thiện”, dùng cái
TÂM thiện mà nói. Cái TÂM rất quan trọng: “Chữ TÂM kia mới bằng ba chữ
TÀI” (Truyện Kiều, Nguyễn Du). Nhờ có “tâm” mà người ta không nói những lời
không tốt, những lời làm đau khổ người khác, hoặc những lời làm chết người.
Tư tưởng trên được danh nhân
Mahatma Gandhi (1869-1948) áp dụng làm phương châm trong đời sống và trong công
cuộc đấu tranh giành độc lập cho Ấn Độ. Lúc nào ông cũng mang theo bên mình
hình tượng bộ khỉ tam không như lời nhắc nhở vậy. Người ta diễn đạt triết lý
“Tam Không” theo cách khác: “Có người thấy và nói ra nhưng họ không bao
giờ nghe theo những gì người khác nói; có người không bao giờ thấy bất cứ gì,
nhưng họ nghe người khác và nói ra; có người nghe và thấy nhiều việc nhưng họ
không bao giờ nói ra hết”.
Theo triết lý Đông phương,
mọi sự vật trong đời đều bị chi phối bởi triết lý Âm Dương tương phản. Động
thái của ba con khỉ có thể nói lên tính chất tương phản của luật âm dương trong
cuộc sống hằng ngày.
Hình ảnh “Khỉ Tam Không” nhắc
nhở về tầm quan trọng của “tâm viên, ý mã” trong phép thiền. Tâm của chúng ta
như con khỉ, ý của chúng ta như con ngựa. Người ta phải biết kiểm soát cái tâm
vọng động, chẳng khác gì con khỉ chạy lăng xăng. “Tâm viên, ý mã” là tâm lăng
xăng như loài khỉ, và ý hướng loạn động như loài ngựa. Loài khỉ thường hay nhảy
nhót, khọt khẹt, đứng ngồi không yên, thường chuyền hết từ cành cây này sang
cành cây khác, lại hay phá phách, bắt chước, thế nên người ta thường nói “liếng
khỉ”. Loài ngựa cũng thích chạy lung tung nên người ta phải đóng móng và tra
hàm thiếc cho ngựa, nếu không thì “nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy”.
Tâm người ta không khi nào
được yên, cứ lăng xăng, lộn xộn, suy nghĩ hết chuyện này đến chuyện khác, từ
quá khứ đến hiện tại, tương lai, đó là “tâm viên, ý mã”. Loại “tâm” này đưa
người ta đến loạn động, phát sinh đủ thứ phiền não, nếu không tu thân thì không
thể vững chắc như chiếc kiềng ba chân. Thật vậy, tục ngữ Việt Nam đã cảnh báo: “Dù
ai nói ngả nói nghiêng, ta đây vẫn vững như kiềng ba chân”.
Người ta phải học triết lý
sống từ những gì cơ bản nhất: học ĂN, học NÓI, học GÓI, học MỞ. Và rồi còn
nhiều thứ khác phải học – học suốt đời, học đến chết vẫn chưa hết, thậm chí có
những điều vẫn không thông: yêu thương và tha thứ. Khó thật! Khi nhỏ, chúng ta
học cách nói; càng lớn chúng ta càng phải học cách giữ im lặng. Khó lắm!
Có lẽ khó nhất là “giữ
miệng”, thế nên tác giả Thánh Vịnh đã cầu xin:“Xin canh giữ miệng con, lạy Chúa,
và trông chừng lưỡi con”
.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét