1. Như bao bạn trẻ khác,
tôi rời quê khi học hết phổ thông. Rồi cũng như bao người khác, tôi ra nước
ngoài học tiếp khi xong đại học.
Gần mười hai năm học tập và
làm việc ở nước ngoài, tôi có bạn bè mới, thầy cô mới, đồng nghiệp mới. Trong
công việc không có định kiến, không có phân biệt. Tất cả diễn ra trong một sự
trung thực và cởi mở hồn nhiên. Hồn nhiên đến mức ngạc nhiên.
Tôi chìm đắm trong bầu không khí dân chủ, bình đẳng và
tinh thần tự do học thuật. Tôi thấy mình được tôn trọng, và ý thức được mình có
quyền được người khác tôn trọng.
Tôi phải làm đủ thứ giấy tờ nhưng không bao giờ thấy
những con dấu đỏ. Chỉ cần một chữ ký cá nhân là đủ, một cuộc điện thoại, một lá
email là xong. Không ai hạch sách, không ai đòi kiểm tra, không ai đòi công
chứng bản gốc.
Tôi lên tàu điện: không có người soát vé. Họ tôn trọng
chúng tôi, và tin chúng tôi. Thỉnh thoảng họ có đi kiểm tra định kỳ thì cũng
rất lịch sự, không gây cho mình cảm giác khó chịu.
Tôi ra siêu thị: không ai bắt tôi phải gửi đồ trước
khi vào mua hàng. Không ai kiểm tra chúng tôi khi ra. Họ tôn trọng chúng tôi,
và tin chúng tôi.
Tôi và một người bạn đi mua bảo hiểm xe. Điều khoản
cho biết, nếu mất xe thì sẽ được đền xe mới. Bạn tôi hỏi: nếu chúng tôi
bán xe rồi báo mất thì sao? Nhân viên bảo hiểm ngạc nhiên mất một lúc lâu
mới nghĩ ra được câu trả lời: tôi tin các anh không làm thế.
Lần đầu tiên tôi cảm nhận được sự tin tưởng mang tính
hệ thống. Một sự tin tưởng cá nhân mạnh mẽ lan tỏa trong toàn xã hội. Chữ Tín
được xác lập mà không cần sự có mặt của các loại công chứng bản gốc, chứng
thực, xác nhận...
Tôi vỡ ra: À, ra thế. Họ giàu mạnh vì họ tin
ở con người.
2. Mười hai năm sau tôi trở về. Nhiều cái như
xưa. Nhiều cái hơn xưa. Nhưng cũng nhiều cái tệ hơn xưa.
Tôi làm thủ tục nhận đồ mình gửi cho mình. Tên tôi
đây. Địa chỉ tôi đây. Hộ chiếu của tôi đây. Vậy sao mà rắc rối đến vậy? Sao
phải xác nhận? Sao phải chứng minh? Sao phải công chứng bản gốc?
Tôi có làm gì đâu, chỉ là nhận đồ mình gửi cho mình
thôi mà sao phức tạp như vậy. Lẽ ra tôi chỉ chờ ở nhà, đúng hẹn công ty vận
chuyển sẽ mang đồ đến. Tôi chỉ cần ký xác nhận là xong.
Tôi được giải thích ở Việt Nam mọi thứ cần phải đúng
quy trình chứ không đơn giản như vậy.
Tôi ngẫm ra: Càng nhiều dấu đỏ, càng ít niềm tin.
3. Tôi đưa gia đình đi siêu thị Big C Long Biên. Niềm
vui khi thấy một siêu thị bề thế, nhộn nhịp vừa mới nhen lên thì gặp ngay một
chuyện ngỡ ngàng: Tất cả những ai muốn vào siêu thị đều phải gửi đồ bên ngoài. Con
gái tôi có một túi khoác nhỏ để đựng mấy thứ lặt vặt cũng phải niêm phong rồi
mới được mang theo.
Vì sao vậy? Chúng tôi hỏi thì chỉ nhận được câu trả
lời: Đây là quy định!
Quy định gì? Quy định không được tin nhau.
Câu chuyện có lẽ sẽ chỉ là một phiền toái buồn, nếu
không có chuyện sau khi thanh toán, tất cả khách hàng lại bị kiểm tra một lần
nữa, và hóa đơn phải được đóng dấu đỏ “đã thanh toán” thì mới được nhân viên an
ninh cho ra ngoài.
Chúng tôi tự hỏi: chuyện quái quỷ gì đang xảy ra
vậy? Quầy thanh toán có hai nhân viên kiểm tra và tính tiền. Từ quầy thanh toán
ra đến cửa ra này chỉ chừng 2 mét, lại không có hàng hóa gì bày bán trên đoạn
đường 2 mét đó. Vậy cớ sao phải kiểm tra lại? Cớ sao phải đóng dấu vào hóa đơn
thì mới được ra?
Vợ tôi phản ứng dữ dội: Nếu kiểm tra mà không tìm
thấy sai sót nào thì các anh có xin lỗi chúng tôi không? Nhưng chúng tôi
chỉ nhận được một câu trả lời lạnh lùng: Đây là quy định.
Tôi nhìn những người xếp hàng chờ kiểm tra và đóng dấu
hóa đơn. Tất cả đều kiên nhẫn và ngoan ngoãn. Họ có thể làm gì trên đoạn đường
dài 2 mét đó để phải chịu cảnh khám xét?
Tôi lặng lẽ quan sát. Rất nhiều người lớn tuổi. Lịch
sử như phảng phất qua bộ quân phục cũ. Một vài nụ cười cầu hòa dù chủ nhân
không làm gì sai. Một vài ánh mắt lấm lét không có lý do. Nhiều gương mặt cam
chịu và chờ đợi cảnh được khám xét.
Tôi cố gắng tìm lý do để biện minh cho việc làm kỳ
quái đó, nhưng không thể.
Tôi rút ra kết luận: Nhiều người Việt không tin
người Việt. Nhiều người Việt không hiểu rằng mình có quyền phải được người khác
tôn trọng.
4. Chúng tôi ra về, nhưng vẫn ám ảnh câu hỏi: Vì
sao người Việt không tin nhau? Phải chăng chúng ta đã quen sống trong một sự
cảnh giác thường trực đến độ thành phản xạ có điều kiện?
Tôi bất giác nhớ đến mớ giấy tờ đỏ choét những con dấu
công chứng sao y bản gốc. Tôi tự hỏi: Tôi và triệu người quanh tôi đã mất bao
nhiêu thời gian cho những thứ này?
Tôi thở dài: càng nhiều dấu đỏ, càng ít niềm tin.
Tôi tự hỏi: Phải chăng đang có một cuộc “khủng
hoảng niềm tin”?
Và khi nào thì người ta không tin nhau?
Rõ ràng là khi có sự dối trá. Người ta không tin nhau
khi cần phòng tránh sự dối trá.
Vậy là đang có một sự dối trá phổ biến, đến mức một
đoạn đường 2 mét và được kiểm soát chặt chẽ cũng trở nên đáng ngờ.
Và chúng ta đã mất biết bao nhiêu thời gian và nguồn
lực để cảnh giác, phòng tránh, đương đầu với sự dối trá này?
Không ai thống kê định lượng, nhưng chắc hẳn là rất
nhiều. Nhiều đến mức có thể làm cho đất nước ta kiệt quệ. Kiệt quệ vì luôn
phải cảnh giác, đề phòng.
5. Việt Nam đang rất cần một sự quy tụ nguồn lực
để phát triển. Nhưng quy tụ làm sao khi cả xã hội sống trong tâm trạng cảnh
giác thường trực, lúc nào cũng nơm nớp đề phòng? Quy tụ làm sao khi sự giả dối
đã trờ thành một lối sống của xã hội? Quy tụ làm sao khi niềm tin giữa người
với người đã trở nên cạn kiệt?
Việt Nam đang rất cần hội nhập, rất cần làm bạn với
thế giới bên ngoài. Nhưng hội nhập làm sao khi luôn nhìn thế giới bên ngoài với
con mắt thù địch nghi ngờ? Làm bạn làm sao khi không có lòng tin vào đối tác
của mình?
Đất nước đã thống nhất nhưng lòng người chưa thống
nhất. Di sản của mấy mươi năm chiến tranh quá đỗi nặng nề. Trong này kinh
tế khó khăn. Ngoài kia Biển Đông nổi sóng. Một cuộc hòa giải, để sau đó thực sự
có một sự hòa hợp Nam Bắc, trong ngoài là cần thiết hơn bao giờ hết. Muốn vậy
cần xóa bỏ mọi nghi kỵ lẫn nhau giữa mọi tầng lớp xã hội.
Nhiều học giả đã gọi niềm tin là một thành phần quan
trọng của vốn xã hội. Khi niềm tin cạn thì vốn xã hội cũng cạn theo. Mà cạn vốn
thì làm sao phát triển?
.