Vua nhà Thanh biếu tặng vua
Tự Đức một con hạc loại hiếm. Tự Đức quý lắm, cho đeo trước cổ con hạc
tấm thẻ bài ghi “Thiên Tử Hạc” (Hạc của vua nuôi). Thiên Tử Hạc quen hơi
người nên được thả trong Vườn Thượng uyển.
Ngày nọ, Thiên Tử Hạc bay ra
khỏi Hoàng cung. Nó lạc vào vườn một thường dân nên bị chó của nhà này cắn
chết. Vua Tự Đức thấy mất con hạc mình yêu quý, dày công tốn sức chăm nuôi nên
truyền cho thuộc cấp điều tra.
Cấp dưới điều tra biết được
việc chó nhà dân cắn chết hạc của vua nuôi nên đã quay về trình báo. Vua Tự Đức
thấy hạc quý đã chết nên nổi giận, truyền cho Bộ hình luận tội. Bộ Hình kết án
chủ chó phải tội tử hình và bị tịch thu toàn bộ gia sản.
Việc xử án của Bộ hình được
quan Ngự Sử Phạm Đan Quế biết được. Sau khi xem xét các tình tiết, ông xin yết
kiến vua Tự Đức và trình một bản tấu. Bản tấu ấy như sau:
Hạc bất năng ngôn/ Khuyển vô
thức tự
Hạc nhập dân viên/ Khuyển
trung vu chủ
Điểu, Thú đấu tranh/ U minh
hà dự
Khuyển phệ hạc tử/ Tôi quy vu
chủ
Hạc trắc khuyển tử/ Tường hà
luật xử?
Dịch nghĩa:
Hạc chẳng biết nói/ Chó không
biết chữ
Hạc vào vườn dân/ Chó trung
với chủ
Chim, thú đánh nhau/ Tối sáng
không rõ
Chó cắn chết hạc/ Tội quy cho
chủ
Hạc mổ chết chó/ Luật xử thế
nào?
Vụ án “chó cắn hạc vua” cũng
đã để lại một điển tích hay về việc xử án ngày xưa của cha ông mà ngày nay chúng
ta vẫn cần phải học tập. Đó là không phân biệt hay thiên vị một ai trong việc
phân xử, chỉ có lẽ phải là luôn được tôn trọng triệt để.
Nghe xong, vua Tự Đức cấp tốc
hạ lệnh hủy bỏ bản án và không bàn đến nữa. Bởi đối với vua Tự Đức, những lời
của Phạm Đan Quế không những có tình mà còn rất có lý: Chó và hạc đều là vật.
Cả hai không biết nói, không biết chữ nên hạc đeo thẻ đề Thiên Tử Hạc chó cũng
không biết.
Như vậy, chó cắn chết hạc là
do cái thói cắn nhau của hai con vật, nên không thể bắt chủ chó thế mạng. Nếu
bản án trên thi hành như kết luận của Bộ Hình thì sau này thành án lệ. Chẳng
hạn, lỡ có ngày chó hoàng cung cắn chết cầm thú nhà dân hay cắn chết người ta,
không biết sẽ nghị án ra sao. Không lẽ phải bắt vua trị tội?
Tuy nhiên, càng nghĩ càng
thấy vụ án không hề đơn giản. Bởi trong chế độ phong kiến, ý vua tức là ý trời,
không ai dám trái lệnh. Nhưng do ông Phạm Đan Quế nói quá có tình có lý nên vua
Tự Đức đã nghe theo. Và việc vua Tự Đức nghe theo cũng chứng minh vị vua này
cũng là một vị vua anh minh, biết nghe lời can gián của quần thần. Chính vì thế
vụ án “chó cắn hạc vua” cũng đã để lại một điển tích hay về việc xử án ngày xưa
của cha ông mà ngày nay chúng ta vẫn cần phải học tập. Đó là không phân biệt
hay thiên vị một ai trong việc phân xử, chỉ có lẽ phải là luôn phải được tôn
trọng triệt để.
.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét