.
Mà thiệt ! Công việc hổng có
gì gọi là nặng nhọc. Tôi treo võng giữa hai cây gáo lớn cạnh bờ sông, rồi
nằm tòn ten trên đó ca tới ca lui mấy câu vọng cổ, lâu lâu trèo lên cây gáo ngồi
nhìn ruộng lúa minh mông kéo dài tới rừng tràm nằm phía trong xa, xa cỡ đôi ba
dậm hú. Đó là chiều sâu. Còn chiều ngang là nằm dài theo con sông Cái, có con rạch
No làm ranh phía trên, chỗ tôi treo cái võng, và con rạch Bù Xu làm ranh phía
dưới. Từ rạch No muốn nhìn thấy rõ rạch Bù Xu phải xè bàn tay đưa lên ngang mày
che bớt ánh sáng ! Nói như vậy, để thấy ruộng ông Cả Bảy lớn biết ngần
nào…
Lần đầu tiên đi với ông Cả Bảy qua ruộng
để ‘nhận việc’, thấy minh mông thiên địa như vậy, tôi hết hồn, nói :
- Trời đất ! Mút chỉ như vậy, mình
con coi sao thấu !
Ông Cả Bảy cười khì khì :
- Tao chỉ cần mầy qua bển cho có mặt
hằng ngày chớ đâu có biểu mầy đi
đánh lộn với tụi lưu manh
đâu ! Cái lũ đó hể thấy có người canh ruộng là tụi nó rút đi chỗ khác
hè !
Ngừng một chút để suy nghĩ rồi ổng
nói :
- Tàm tạm vài bữa rồi tao cho
đám thằng Hai Lưa ở trại hòm qua cất cho mầy cái chòi nhỏ có tháp canh cao phía
trên, để có chỗ cho mầy đụt mưa đụt nắng.
Có lẽ thấy tôi còn…ngơ ngơ nên ổng
nói tiếp :
- Trên tháp canh sẽ có cái ống tre lớn
làm cái mõ. Hễ mầy thấy có bóng người vô ruộng thì mầy cứ gõ mõ liên hồi là nó
chạy. Hiểu chưa ?
Vậy là ít lâu sau, tôi có cái chòi
tranh vách lá, có chỗ để treo võng, có chỗ để nấu cơm, phía trước có cây cầu
ván chờm ra sông để tắm gội…
…Qua mùa lúa đó, ông Cả Bảy kêu tôi,
nói :
- Tao thấy mầy tuy côi cút một thân một
mình mà làm việc siêng năng nên tao thương. Tao cho mầy một miếng đất bên ruộng
để mầy cất nhà rộng rộng, còn lo cưới vợ nữa chớ !
Vậy rồi mấy hôm sau, ổng dẫn nhóm chú
Hai Lưa trại hòm qua ruộng của ổng, đo đạc cặm nọc để cho tôi miếng đất nằm cạnh
vàm rạch No, còn chỉ chỗ cho chú Hai Lưa cất cho tôi cái nhà nền đất nóc tôn
vách ván nữa ! Tôi cảm động nghẹn lời, ấp úng nói mấy tiếng cảm ơn mà cũng
không tròn chữ tròn câu…Ông Cả cười cười :
- Mầy lo đốn cây làm rào dậu, trồng
trỉa cho thành khoảnh đi, rồi tao kiếm cho mầy một con vợ !
Nói xong, ổng cười ha hả, khoái
chí !
…Ông Cả Bảy có hai người con trai đi
học bên tây rồi ở luôn ở bển. Từ ngày bà Cả nằm xuống, ổng vẫn sống cu ky một
mình trong cái nhà sàng tổ chảng nằm cạnh trại hòm và trại cưa của ổng. Ổng
thôi làm cả trong ban hội tề từ lâu nhưng trong làng vẫn gọi ổng là Cả. Nghe
nói ổng ‘quen lớn’ dữ lắm, thấy mấy ông Quận ông Tỉnh thường ghé nhà ổng chơi
hay cùng đi bắn le-le … Hồi tôi tới tuổi đi quân dịch, ổng nói : « Mầy yên
tâm lo canh ruộng, còn vụ nầy, để tao lo ». Vậy rồi mươi hôm sau, ổng
trao cho tôi tờ hoãn dịch !
… Cất nhà xong, chú Hai Lưa vỗ vai
tôi, nói :
- Tao có một cái giường đôi bằng gỗ
không xài, để tao chở qua cho mầy. Có điều là nó chỉ còn có mấy thanh ngang chớ
không có tấm vạc giường, tại mấy thằng con tao nó lấy cưa ra làm sạp cho ghe của
tụi nó. Mầy chịu khó đạp xe vô Xóm Mới nói thằng Ba Kiên đương cho cái vạc bằng
tre, rẻ hơn cái vạc gỗ mà nằm lại êm hơn gấp bội.
Ngừng một chút rồi ổng vò đầu tôi,
nói :
- Chừng cưới vợ, nhớ cho tao nhậu với
nghen !
Tôi nói ‘Cám ơn chú’, lí
nhí nghe chừng không rõ lắm !
… Cái gường đó ráp vô rồi thấy rộng
rinh. Mình tôi ngủ thì cần gì đến tấm vạc ? Vậy là tôi thả lên hai tấm ván
đủ cho tôi nằm, sung sướng vì nghe thẳng lưng hơn nằm võng !
Tôi ngủ không có tấm vạc giường như vậy
cho đến hết mùa lúa năm đó thì tôi gặp ‘Nàng’… Cũng do Trời xui Đất khiến !
Nàng tên là Huệ, mồ côi cha, con của
bà Năm Căng ở xóm Lò Gạch. Nàng làm công cho lò gạch ông Tám Tiếu. Nhờ đi
chở gạch để ông Cả cho sửa lại cái đầu bờ kè trước nhà nên tôi gặp nàng. Gặp là
tôi hạp nhãn liền ! Trời ! Con gái nhà quê gì mà nước da trắng bóc,
còn thân hình thì cân đối thon thả kèm theo tướng đi lượng là cứ bắt người ta
phải nhìn theo !
… Vậy rồi nàng và tôi quen nhau. Vậy
rồi, ngày một ngày hai, tôi đạp xe đến lò gạch. Không có gì : chỉ cần gặp
nàng để nói đôi ba câu không đầu không đuôi, rồi chèo xuồng về nhà bên kia
sông, trèo lên vọng gác ngồi ngẩn ngơ suốt buổi !
… Vậy rồi, tôi nghĩ đến tấm vạc giường !
Vậy rồi, tôi đạp xe vô Xóm Mới đặt chú Ba Kiên đương cho tấm vạc giường bằng
tre. Tuần lễ sau, tôi cuốn tròn tấm vạc chở về nhà trải lên cái giường gỗ, nhìn
nó mà nghe lòng phơi phới. Bởi vì đó là lần đầu tiên tôi sắm một món đồ tuy
không có giá trị gì nhiều nhưng lại mang đầy ý nghĩa …
… Để tránh tai mắt, tôi và nàng thường
hẹn gặp nhau ở đường lên chùa vì đường đó vắng người và có mấy bụi tre lớn giao
tàn che nắng. Hai đứa đứng nói chuyện ‘trên trời dưới đất’ cả canh,
nàng hay cầm lấy cành tre non đầy lá vươn ra cạnh chỗ nàng đứng, lắc qua lắc lại
như để đánh nhịp khi nàng nói, mắt nàng nhìn bụi tre, nhìn con dốc lên chùa chớ
ít khi nhìn tôi. Vậy mà sao tôi vẫn nghe lòng phơi phới như được nàng nhìn thẳng
vào mắt !
… Bây giờ thì rõ ràng tôi đã thương
nàng, càng ngày càng thương đậm ! Mà giữ riết trong lòng thì ấm ức quá
đi ! Chắc phải nói ra cho nàng biết, rồi ra sao thì ra ! Vậy rồi một
hôm đứng cạnh bụi tre đã thành quen thuộc, tôi làm gan nói :
- Huệ à ! Anh nói thiệt, Huệ đừng
giận nghen ! Anh thương Huệ quá rồi Huệ à !
Nàng bỗng quay sang nhìn tôi, tay vẫn
còn vin cành tre non, hỏi bằng một giọng nhẹ như tiềng gió trong lùm tre trước
mặt :
- Vậy sao ?
Chỉ có hai tiếng nghe ngơ ngớ kỳ kỳ như vậy
mà tôi lại thấy như là một sự chấp nhận ! Tôi bước lại gần nàng, nàng vẫn
nhìn vào mắt tôi, cập môi mấp máy như muốn nói gì mà hai vành tai ửng đỏ. Đúng
lúc đó, tôi hửi được mùi con gái của nàng làm tôi choáng váng ngầy ngật. Trời
ơi ! Tôi muốn ôm đại nàng để siết chặt lại trong tôi, bởi vì chỉ có làm
như vậy tôi mới nói được tôi thương nàng biết ngần nào … Nhưng tôi lại sợ làm ẩu,
rủi nàng không hiểu rồi giận rồi vùng vằng bỏ đi tuốt thì chắc tôi … chết
quá ! Tôi ráng kềm tôi lại, nuốt nước miếng mấy lần mới nói được :
- Huệ à …
Nàng ‘dạ’, tiếng ‘dạ’ nghe
như chờ đợi. Nàng không còn nhìn tôi mà quay về với cành tre non. Lần nầy, nàng
bứt từng chiếc lá tre rồi bỏ rơi xuống đất, giống như nàng đếm lá !
- Huệ à ! Anh muốn xin cưới
Huệ …
Nói tới đó tôi bỗng nghe … hụt
hơi ! Nàng im lặng bứt từng chiếc lá … Một lúc, tôi hỏi :
- Mà Huệ có ưng không ?
- Biết đâu nà !
Tôi ráng sức nói một hơi :
- Anh làm công cho ông Cả Bảy. Anh có
nhà có đất ở bên kia sông. Anh được hoãn dịch không phải đi lính. Anh sẽ nhờ
ông Cả đánh tiếng qua má của Huệ để xin cưới. Mà Huệ phải cho anh biết coi Huệ
có ưng hay không, cái đã !
- Ờ … Thì vậy !
Rồi, có lẽ thấy câu trả lời không mấy rõ
nên nàng nói thêm :
- Tính sao cũng được !
Tôi mừng quá, nắm đại bàn tay nàng vứa
lắc vừa cám ơn rối rít ! Nàng bỗng quay qua nhìn tôi, mỉm cười. Trời !
Cái cười của nàng sao mà đẹp hết nói ! Tôi như bị hốt hồn, cầm chắt bàn
tay của nàng mà tưởng chừng như đang cầm cây sào cắm xuống lòng rạch để giữ cho
xuồng đừng theo con nước mà bỏ bờ …
Đêm đó, trải chiếc chiếu trên tấm vạc
giường, tôi nằm lên mà nghe mát rượi. Tôi nghĩ : rồi đây, hai đứa sẽ nằm
chung một vạc giường. Chỉ bao nhiêu đó thôi cũng đủ làm tôi sung sướng đi vào
giấc ngủ. Cuộc đời sao dễ thương quá hổng biết ?
Chuyện của nàng và tôi chưa ai biết hết
thì xảy ra vụ tháng tư 1975. Lúc đó, nghe tin dân miền trung chạy rần rần vô
nam, ông Cả Bảy kêu tôi, nói :
- Chuyến nầy, mầy đi giùm tao xuống Cần
Thơ. Tao có con em mấy chục năm nay theo chồng ở dưới. Địa chỉ nó đây.
Ổng đưa tôi miếng giấy có ghi tên họ,
số nhà, tên đường :
- Tao nhờ mầy ôm một số tiền xuống
đưa cho tụi nó, biểu tụi nó lo chạy về đây ở với tao sớm sớm cho có anh có em.
Có gì cũng còn có nhau còn hơn là đứa một nơi người một ngả, loạn lạc nầy không
biết đâu mà rờ. Tao có biểu tụi thằng Hai trại hòm qua ở nhà mầy, vừa giữ giùm
nhà vừa coi ruộng luôn. Đừng lo !
… Vậy là tôi lặn lội xuống Cần Thơ
tìm người em gái của ông Cả. Bà nầy có sạp vãi ở chợ Cần Thơ, ông chồng là thiếu
tá hải quân. Khi tôi tìm ra được bả thì có tin thiên hạ ở Sài Gòn đang chạy di
tản, làm dân chúng Cần Thơ cũng rối ren hối hả xuống ghe xuống xuồng tranh nhau
đi. Ông thiếu tá hải quân hốt hết gia đình đem lên tàu chiến, kéo tôi theo
luôn ! Đứng trên tàu, tôi nhìn đồng ruộng chạy lùi về phía sau mà chết điếng
ở trong lòng, không biết làm sao báo tin cho ông Cả Bảy và nhứt là cho Huệ …
… Vậy rồi sau thời gian nằm trên đảo
của quân đội đồng minh, tôi định cư ở Mỹ, tiểu bang Cali. Tôi làm công cho một
tiệm ăn Việt Nam ở khu Sài Gòn Nhỏ, rửa chén quét dọn lau nhà … Lương lậu không
bao nhiêu nhưng được bà chủ cho ở trong một phòng nhỏ nằm cạnh nhà bếp, ở để
làm gác-dan cho bả luôn !
Thời gian sau, khi đã ổn định đời sống,
tôi có gởi thơ về nhưng không thấy hồi âm. Tôi biết làng tôi nhỏ béo lại nằm tuốt
trên vùng Ngọn - gọi là ‘ Ngọn’ bởi vì nằm trên ngọn sông Vàm Cỏ -
giáp ranh với đất Cao Miên. Hồi thời trước, trong làng không có nhà bưu điện
nên mỗi tuần một lần ông Sáu làm biện trong làng phải đạp xe xuống quận cách đó
mười mấy cây số để lấy thơ ở nhà bưu điện đem về để trong nhà làng. Dân chúng cứ
tự động đến coi trong đống thơ, cái nào mang tên mình thì lấy, có khi lấy giùm
hàng xóm hay họ hàng bạn bè nữa ! Tôi nghĩ chắc bây giờ cũng vậy thôi, thơ
tôi gởi không đến tay Huệ thì làm gì có hồi âm được ?
Dầu vậy, tôi vẫn tin tưởng
rằng nàng không bao giờ quên tôi, cũng như tôi lúc nào cũng nghĩ tới nàng. Tôi
hay nghe mấy người có đọc sách nói ‘Lời thề trăm năm’. Nàng và tôi
đâu có thề thốt gì đâu, nhưng câu nói ‘ Tính sao cũng được’ và cái mỉm
cười tiếp theo sau đó của nàng ở đường lên chùa hồi tôi ngỏ ý xin cưới … tôi đã
khắc ghi vào lòng. Như vậy, chẳng phải là một ‘ Lời thề trăm năm’ hay
sao ?
Nhứt định tôi sẽ trở về Việt
Nam để cưới Huệ. Để hai đứa cùng nằm chung một vạc giường, cái vạc giường đương
bằng thanh tre già chuốt giẹp giẹp, nằm vừa êm vừa mát. Để thấy cái mà mấy người
biết đọc sách gọi là ‘ Hạnh phúc lứa đôi ’đối với tôi, nó chỉ võn vẹn là sự
sung sướng được chia đôi với người mình thương một tấm vạc giường … Mà muốn được
vậy, tôi phải có tiền. Vậy là tôi để dành tiền, cắc ca cắc củm !
Nhờ hỏi thăm mấy người có về Việt Nam
nên tôi đã ước lượng được số tiền cần thiết để làm đám cưới và để hai vợ chồng
tôi có một số vốn làm ăn. Vậy mà phải năm năm sau tôi mới có tàm tạm đủ !
Chừng đó, tôi mới dám ‘ lên kế hoạch’ : nhờ ông Cả Bảy làm chủ hôn
bên đàng trai, rước dâu về nhà của ổng, đãi đằng hai họ ở đó, xong rồi tôi chèo
xuồng đưa cô dâu về nhà bên kia sông để tôi khoe với nàng tấm vạc giường mà tôi
sắm cho hai đứa, từ hơn sáu năm nó vẫn nằm chờ…
Ngồi trên máy bay về Việt Nam, trong
đầu tôi sắp xếp. Trước tiên là về nhà tôi để nghỉ ngơi cho tỉnh mỉnh. Sáng hôm
sau sẽ đi thăm ông Cả Bảy, còn xế chiều thì qua nhà nàng vì giờ đó nàng mới từ
lò gạch về nhà, tôi sẽ bất thần bước vô nói lớn : « Huệ ơi ! Huệ !
Anh về rồi nè ! ». Tưởng tượng đến đó, tôi bỗng ứa nước mắt !
Đầu óc tôi tự nhiên sao mù mờ. Làm như bao nhiêu năm nay tôi chỉ chờ có như vậy !
Tôi thấy tội nghiệp tôi, tội nghiệp nàng : nếu không có cái ngày nghiệt
ngã 30 tháng tư 1975 thì làm gì hai đứa phải cắn răng chịu đựng khắc khe cỡ nầy ?
…Làng tôi bây giờ lạ hoắc. Không phải
có thêm đường ngang nẻo dọc mà thấy đầy cờ xí biểu ngữ, loa trên loa dưới ồn ào
không giống cái gì hết !
Tôi xuống xóm chợ nhờ một
chị chèo xuồng mướn đưa tôi sang sông.
Khi xuồng vừa cặp vô cây cầu ván thì
có con chó chạy ra sủa râng, rồi hai ông bà già từ trong nhà bước ra dòm. Té ra
là chú thím Hai Lưa hồi xưa thủ trại hòm của ông Cả Bảy ! Chú Hai nhìn ra
tôi ngay. Ổng la lên :
- Trời đất ! Mầy còn sống hả ?
Ở đâu mà về vậy ?
- Dạ ở Mỹ.
- Cha…xa ớn há !
Rồi chú lật đật vừa la chó vừa bước
xuống cầu phụ tôi đem hành lý lên. Trước nhà thấy có phơi chiếc chiếu với hai
ba cái gối. Trong nhà vẫn như xưa, cái giường gỗ vẫn nguyên chỗ cũ với tấm vạc
giường tôi đem về từ trong Xóm Mới. Chỉ có thêm là hai cái võng nằm song song gần
đó, còn thì bàn ghế tủ..v.v…không có gì thay đổi. Tôi xúc động đến nghẹn lời.
Chú Hai nói :
- Mầy uống miếng trà rồi nằm võng nghỉ
lưng. Trong làng tưởng mầy chết rồi chớ, đâu dè … Để tao kể mầy nghe …
Vậy rồi chú nằm trên võng cạnh tôi, vừa
hút thuốc vừa kể :
- Hôm mầy đi Cần Thơ, cha con tao
theo lời ông Cả biểu, thay phiên nhau qua đây giữ nhà giữ ruộng. Kế đó, tụi nó
- tụi cách mạng ớ ! – tràn vô làng, bắt hết hội đồng xã, bắt luôn ông Cả Bảy
trói bằng kẽm gai thành một dọc, chở đi mất. Rồi tụi nó chiếm hết, nhà cửa đất
đai ruộng vườn, đuổi tụi tao ra để lấy trại hòm. Nhờ có cái nhà của mầy mà tụi
nầy dọn qua ở tạm. Tao và hai thằng con tao cất thêm cho cái chòi giữ ruộng rộng
ra để để đồ đạc của tụi tao và để hai thằng con tao có chỗ hành nghề thợ mộc của
tụi nó. Hai thằng nầy coi vậy mà gan ! Tụi nó vượt biên rồi định cư ở Úc.
Bây giờ, tụi nó có xưởng mộc ở bển, coi bộ làm ăn khá ! Thấy lâu lâu gởi
tiền về nhờ thằng bạn tụi nó ở thành phố chạy Honda lên đưa ! … À ! Mầy
biết hông ? Tụi cóc cắn cách mạng có kêu tao về trại hòm làm cho tụi nó,
tao đấm thèm ! Mầy nghĩ coi : trại hòm mà cũng bày đặt trương biểu ngữ
đề ‘ Hạ quyết tâm hoàn thành tốt kế hoạch của Nhà Nước ’. Mẹ !
… Hòm chôn người chết mà cũng vô kế hoạch nữa thì khùng hết nước nói ! Còn
chuyện nầy chắc mầy chưa biết : con Huệ, con bà Năm Căng …
Hai tiếng ‘Con Huệ ‘ làm tôi giật
mình. Tôi nhỏm dậy, lắng tai nghe. Chú nói tiếp :
- Mấy tháng sau giải phóng, không biết
nó nghe lời ai mà ôm gói xuống thành phố nói kiếm việc làm rồi lặn mất luôn cho
đến năm ngoái đây, nó trở về mà đi bằng xe hơi nhà có tài xế, trên băng sau có
người đàn ông có vẻ ông chủ. Mầy biết, trong làng chỉ có thằng Cói gia nhân của
ông Cả Bảy là được ổng sắm cho chiếc Honda để đưa ổng đi đây đi đó, chớ đâu có
ai có xe hơi. Vì vậy, khi con Huệ đi xe hơi thẳng vô xóm Lò Gạch là thiên hạ để
ý. Bà Năm Căng kể lại nói bả nhìn nó không ra, tưởng là một bà nhà giàu nào đó
đi lầm nhà ! Chừng nó xưng tên, mẹ con nó và bầy em nó ôm nhau khóc làm
hàng xóm chạy qua mừng cũng rớt nước mắt. Nó đem cho má nó hai bao đồ rồi nhét
trong túi áo má nó một cộc tiền. Sau đó, nó chỉ nói được có mấy tiếng ‘Con lạy
má ! Con lạy má !’ rồi vừa khóc vừa chạy vội ra xe lên ngồi cạnh ông
người á-đông ở băng sau, tài xế rồ máy chạy ào đi gấp. Từ đó tới giờ không có
tin tức gì hết !. Còn đồ nó cho má nó toàn là tơ lụa mắc tiền nằm kín
trong từng bao ni-long có in nhiều chữ tàu. Thầy Ba trên chùa đọc rồi nói đó là
sản phẩm cao cấp của Thượng Hải …
Tôi ngả người nằm xuống võng mà nghe
lùng bùng hai lỗ tai, chết điếng ở trong lòng. Chú Hai Lưa hỏi :
- Mầy còn nhớ con Huệ hông ?
Tôi ‘dạ‘, tiếng dạ bị nước mắt trào
lên chận ngang. Tôi nuốt xuống mà nghe miệng mồm đắng chác. Không kềm được nữa,
tôi đưa hai tay lên bụm mặt. Chắc chú Hai Lưa thấy, hiểu, nên nghe chú tằng hắng
một tiếng rồi làm thinh …
Trên máy bay trở về Mỹ, tôi nhìn qua
cửa sổ thấy nhà cửa ruộng đồng cây cối mờ lần mờ lần rồi mất hút … mà tôi nghe
buồn rười rượi. Ở tuốt dưới đó, trong một làng quê nằm xa mút trên vùng đất Ngọn,
tôi đã bỏ lại một tấm vạc giường, tấm vạc giường tưởng để nằm chung với người
con gái nhà quê mà tôi thương, đâu ngờ chuyện hai đứa chưa kịp thành duyên
thành nợ thì nàng đã như chiếc xuồng bỏ bờ mà trôi theo nước, đành đoạn trôi
theo nước …
Mối tình dành riêng cho nàng mà tôi
giữ miết ở trong lòng từ bao nhiêu năm, giờ nghĩ lại sao thấy quá khù khờ !
Dầu vậy, tôi vẫn muốn gặp nàng, gặp một lần thôi, để chỉ hỏi có một câu :
« Tại sao ?... Tại sao ? … Tại sao ? … »
Nghĩ đến đó, tự nhiên tôi trào nước mắt
…
Tiểu Tử
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét